Rằm Tháng 7-
ngày lễ của người Việt được giới tăng ni Phật tử gọi là ngày Đại Lễ Vu Lan, dịp
đặc biệt để con cái báo hiếu các bậc sinh thành, tổ tiên đã khuất. Theo tín
ngưỡng dân gian, rằm tháng Bảy cũng là ngày xá tội vong nhân, các nhà bày mâm
cỗ cúng chúng sinh....
1. Theo sự
tích xưa, Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ
quỷ. Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói
chung) - cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước.
Sau khi đã
chứng quả A La Hán, ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng
huệ nhãn tìm. Thấy mẹ vì gây nhiều nghiệp ác nên rơi vào ngục A Tỳ làm quỷ, bị
đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên
do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình
đi tranh không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên
miệng thức ăn đã hóa thành lửa đỏ.Quá thương cảm, xót xa Mục Liên quay về tìm
Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: "dù ông thần thông quảng đại đến
đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng
khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp
Ðúng vào ngày rằm tháng 7 thì lập trai đàn để cầu nguyện, thiết trai diên để
mời chư tăng thọ thực. Trước khi thọ thực, các vị này sẽ tuân theo lời dạy của
Ðức Phật mà chú tâm cầu nguyện cho cha mẹ và ông bà bảy đời của thí chủ được
siêu thoát".
Mục Liên làm
đúng như lời Phật dạy. Quả nhiên vong mẫu của ông được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ
mà sanh về cảnh giới lành. Cách thức cúng dường để cầu siêu đó gọi là Vu Lan
bồn pháp, lễ cúng đó gọi là Vu Lan bồn hội, còn bộ kinh ghi chép sự tích trên
đây thì gọi là Vu Lan bồn kinh.
Và thế là mỗi
năm khi ngày này đến gần, những người phụ nữ trong gia đình lại bận rộn hơn với
công việc chuẩn bị cúng rằm nhớ ơn tổ tiên, lên chùa khấn cầu Phật phù hộ cho
gia đình, cha mẹ được bình an phúc đức, tất bật chuẩn bị những mâm lễ cúng
chúng sinh. (VNN).
2. Theo Phật Quang Đại từ điển, mục từ: Vu Lan Bồn. Phạm:
Ullalambana. Cũng gọi: Ô lam bà noa. Chữ Hán dịch là Đảo huyền. Cũng gọi là Vu
lan bồn hội, Bồn hội. Chỉ cho nghi thức cầu siêu độ cho tổ tiên, ông bà, cha
mẹ, thân thuộc nhiều đời, được cử hành vào ngày Rằm tháng 7 âm lịch hàng năm
căn cứ theo lời Phật dạy trong kinh Vu lan bồn tạo các khu vực theo Phật giáo
thuộc hệ thống Hán ngữ.
Vu lan bồn là
dịch âm từ chữ Phạm Avalambana (Đảo huyền = treo ngược), ví như nỗi khổ của
người chết giống như cái khổ của người bị treo ngược, cực kỳ đau đớn. (...)
Theo Kinh Vu
Lan bồn, đệ tử Phật là ngài Mục Liên dùng thiên nhãn trông thấy thân mẫu bị đọa
vào đường quỷ đói, gầy ốm chỉ còn da bọc xương, ngày đêm khổ não liên tục, thấy
rồi, ngài Mục liên dùng bát đựng cơm đưa đến dâng cho mẹ, nhưng do chịu quả báo
của nghiệp ác nên cơm biến thành lửa. Để cứu mẹ thoát khỏi nghiệp khổ này, ngài
Mục liên bèn xin đức Phật chỉ dạy cách giải cứu, Phật liền dạy ngài Mục liên
vào ngày rằm tháng 7 là ngày chư tăng tự tứ (kết thúc hạ an cư) , dùng thức ăn
uông đựng trong bồn Vu Lan cúng dường Tam bảo sẽ được vô lượng công đức, cứu
được cha mẹ 7 đời. ..
Còn theo Kinh
Đại bồn tịnh độ thì vua Bình sa, cư sĩ Tu đạt, phu nhân Mạt lợi ...y theo
phương pháp của ngài Mục liên là 500 bồn vàng đựng thức ăn dâng cứng đức Phật
và chúng tăng để cầu diệt trừ tội nghiệp của cha mẹ 7 đời.
Tại Trung
Quốc, theo truyền thuyết, vua Vũ đế nhà Lương là người đầu tiên cử hành hội Vu
Lan bồn. (Trích: Phật Quang
Đại từ điển, tập 6 do Hòa thượng Thích Quảng Độ dịch. Hội Văn hóa Giáo dục
Linh Sơn Đài Bắc xuất bản, trang 7241- 7242).
3. Theo Từ điển Văn hóa cổ truyền Việt Nam, mục từ
Vu Lan (lễ)(Phật giáo).
Vu Lan (bồn)
là cái chậu đựng hoa quả, phẩm vật dâng cúng. Lễ Vu Lan cử hành vào rằm tháng
Bảy âm lịch hàng năm, là lễ dâng các phẩm vật cúng chư tăng đựng trong chiếc Vu
Lan cầu xin cho vong hồn người thân thoát khỏi nơi địa ngục. Rằm tháng 7 âm
lịch gọi là ngàu vong nhân xá tooijm nghĩa là dưới âm phủ, ngày hôm ấy các vong
hồn được tha tội. Bởi vậy đốt vàng mã cúng gia tiên.
(Trích Từ điển Văn hóa cổ truyền Việt Nam. Hữu
Ngọc chủ biên.
Nxb Thế giới,
Hà Nội, 2002, trang 750).
Đọc thêm:
Gương hiếu
hạnh của Đức Mục Kiền Liên
Hôm nay là ngày Lễ Vu Lan, 15 tháng bảy âm lịch theo Phật
giáo Việt Nam, thokao trích bài "Gương hiếu hạnh Đức Mục Kiền Liên"
của Hòa thượng THÍCH THANH TỪ để mọi người cùng đọc.
Ngày lễ này có ý nghĩa rất lớn vì đây là ngày Tôn giả Mục
Kiền Liên cứu mẹ thoát khỏi khổ hình trong địa ngục. Tại sao Ngài Mục Kiền Liên
là vị đệ tử của Phật, cũng như bao nhiêu vị A la hán khác nhưng chúng ta lại
đặt quan trọng? Bởi vì người Việt Nam lâu nay nặng về chữ Hiếu, tổ
tiên ông bà cha mẹ đều lấy chữ Hiếu làm đầu. Gương của ngài Mục Kiền Liên là
một gương sáng nói lên lòng hiếu thảo của người con đối với cha mẹ, nên rất
thích hợp với Phật giáo Việt Nam.
Cho nên Phật
giáo nước ta xem ngày Lễ Vu lan rất quan trọng, để nhắc nhở tất cả Phật tử đều
ý thức ngày lễ này là một hình ảnh đẹp, là một tấm gương sáng ngời, chúng ta
phải hằng nhớ hằng biết, chớ không thể lơ là được. Người Việt Nam mình tôn
trọng chữ Hiếu làm đầu, điều này có sai lệch không? Chắc là không. Bởi vì ai
cũng thấy rõ, chúng ta nhờ thừa hưởng sự trao truyền từ cha mẹ mà mình có hình
hài, có thân thể này. Sự trao truyền đó là huyết thống, chớ không phải chuyện ở
bên ngoài. Cho nên mọi hay dở tốt xấu của chúng ta là niềm vui buồn hay đau khổ
của cha mẹ. Bổn phận làm con không bao giờ quên ơn cha mẹ, bởi vì thâm ân đó
không thể nào chối cãi, không thể nào từ bỏ được.
Người nào thấy
cha mẹ già có vẻ lẩm cẩm một chút mà xem thường cha mẹ là có lỗi lớn. Dù cha mẹ
lẩm cẩm bao nhiêu đi nữa, nhưng chúng ta cũng nhớ rằng bản thân mình là một
phần của thân thể cha mẹ, không thể tách rời, không thể đứng riêng, dù muốn
chối bỏ cũng không chối bỏ được. Thân này đã là của cha mẹ mà mình phụ rẫy,
vong ân thì điều đó thật vô nghĩa, không xứng đáng là một con người. Do đó lòng
hiếu thảo đối với chúng ta là một chân lý. Trên thế gian này không có ân nào
quý trọng và cao cả bằng ân cha mẹ. Nếu ân cao cả như vậy mà chúng ta quên đi
thì những ân thường trong xã hội, ân của bạn bè giúp đỡ, chúng ta làm gì biết
ơn và đền ơn.
Như vậy muốn
thành người tốt, có đạo đức, trước tiên phải là người con hiếu thảo. Người Phật
tử không phải tu theo Phật để chỉ cầu giải thoát sanh tử thôi, mà còn tu trong
bổn phận làm người, trong đó cha mẹ là trên hết. Đối với cha mẹ mà quên thì cầu
thành Phật, cầu giải thoát, e rằng chưa được. Vì sao? Vì ngài Mục Kiền Liên đã
chứng A la hán rồi mà còn chưa quên công ơn của mẹ, huống nữa chúng ta là phàm
Tăng phàm Ni, lại không nhớ không kể gì đến ân cha mẹ, đó là một điều thiếu sót
không thể chấp nhận được.
Vì vậy ngày Lễ
Vu lan vừa là lễ Phật, lễ Bồ tát, lễ A la hán tức ngài Mục Kiền Liên, mà cũng
là một ngày gợi nhắc lại cho chúng ta tinh thần cao đẹp của tổ tiên mình. Chúng
ta phải nhớ ngày Lễ Vu lan có ý nghĩa trọng đại như thế, chớ không phải tới
ngày này chỉ cầu nguyện cho ông bà siêu sanh Tịnh độ thôi, mà chúng ta luôn
nghĩ tới bổn phận làm con đối với cha mẹ. Nghĩ đến tình thương cha mẹ đối với
chúng ta như thế nào để cố gắng tu hành, cố gắng đền trả công ơn lớn lao của
cha mẹ. Như vậy mới xứng đáng là người con Phật, cũng xứng đáng là người Phật
tử Việt Nam.
Nhiều người
đặt câu hỏi, tại sao ngài Mục Kiền Liên đã tu chứng lục thông, có thể đến được
chỗ của mẹ ở trong cõi ngạ quỷ đói khát, mà không dùng thần thông cõng mẹ chạy
lên cõi Trời cho sung sướng? Tại sao thấy cảnh mẹ khổ rồi khóc trở về, không
làm gì được? Đó là một vấn đề cần phải hiểu rõ. Trong nhà Phật có câu “Thần
thông bất năng địch nghiệp”, nghĩa là thần thông không thể diệt được định
nghiệp. Nghiệp đã nhất định rồi, dù có thần thông cũng không đổi dời được.
Như trường hợp
Đức Phật khi đã đắc quả rồi, dòng họ Thích bị vua Lưu Ly cử binh sang đánh. Đức
Phật nhiều lần khuyên ngăn nhưng không được, cuối cùng Phật cũng đành chịu để
vua Lưu Ly chém giết dòng họ Thích Ca. Như vậy để thấy khi định nghiệp có rồi
thì khó cải đổi được. Đức Phật không cứu được dòng họ cũng như ngài Mục Kiền
Liên không cứu được mẹ, dù là có thần thông. Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy
rõ thần thông không chuyển được định nghiệp của người khác.
Trong nhà
thiền thì xem thường thần thông lắm. Như tổ Hoàng Bá ở Trung Hoa, ngài lên núi
Thiên Thai vào mùa mưa, khi xuống núi gặp một vị Tăng, cả hai kết bạn cùng đi.
Đi một đỗi gặp dòng suối lớn, nước chảy mạnh, đằng xa có một con thuyền. Vị
Tăng cùng đi bảo “huynh đi qua đi”, ngài Hoàng Bá nói “huynh qua được thì cứ
qua trước”. Vị Tăng nọ liền vén áo, đi thật nhanh trên mặt nước qua bờ bên kia.
Ngài Hoàng Bá dùng thuyền qua sau. Đến bờ bên kia, người bạn đồng hành cười ra
vẻ xem thường ngài không có thần thông.
Ngài hỏi: -
Huynh tập bao lâu mới được thần thông?
Đáp: - Ba mươi
năm.
Ngài Hoàng Bá
nói: - Công của huynh tập ba mươi năm, giá đáng hai xu thôi.
Vì bỏ ra ba
mươi năm để có thần thông đi qua dòng suối, trong khi thiền sư chỉ cần tốn hai
xu qua đò là xong. Nên ngài nói công tập ba mươi năm chỉ đáng giá hai xu! Như
vậy để chúng ta hiểu đạo Phật trọng tu hành chuyển nghiệp hơn là thần thông.
Bởi vì nghiệp mình tạo sẽ chuốc quả khổ, người khác có thần thông không cứu
được. Muốn hết nghiệp phải chuyển từ lúc ban đầu, chớ không phải luyện tập thần
thông mà được.
Nghiệp của bà
Thanh Đề, mẹ ngài Mục Kiền Liên là nghiệp gì? Bỏn xẻn là một phần nhỏ, lớn hơn
là lòng hiểm ác. Từ nghiệp hiểm ác bỏn sẻn mà đọa vào kiếp ngạ quỷ, làm quỷ
đói. Đã đọa rồi thì phải chịu quả, dù con mình có thần thông cũng không cứu
được. Cho nên biết thần thông không chuyển được nghiệp, chỉ tu mới chuyển được
thôi. Đó là giải đáp thắc mắc về vấn đề thần thông.
Còn một vấn đề
nữa, sau khi ngài Mục Kiền Liên về, trình lên Phật nỗi đau khổ vì thấy mẹ đói,
Ngài đem cơm cho mẹ ăn mà bà ăn không được. Ngài muốn cứu mẹ, không làm sao cứu
được. Phật mới dạy Tôn giả thỉnh chư Tăng cầu nguyện cho mẹ Ngài chuyển kiếp
ngạ quỷ. Sau khi tổ chức Lễ Vu lan rồi, chư Tăng thọ trai xong, đồng thời
nguyện cầu cho bà chuyển được tâm niệm ác độc trở thành tâm niệm lương thiện.
Nương nơi sức cầu nguyện của chư Thánh tăng, bà chuyển được tâm xấu ác thành
tâm thiện lành, liền sanh lên cõi Trời. Nhân đó, người ta đặt câu hỏi đạo Phật
nói nhân quả, tạo nhân nào thì chịu quả nấy, tại sao cầu nguyện liền mất hết
quả cũ. Như vậy lý nhân quả nằm ở chỗ nào? Đó là một vấn đề.
Quý Phật tử
nên biết không phải chư Tăng tụng kinh cầu nguyện, liền đó bà Thanh Đề được
sanh về cõi Trời. Hương linh của người chết đọa vào kiếp ngạ quỷ, họ sống, họ
ăn bằng cái tưởng. Chúng ta cúng cô hồn gồm muối, gạo, cơm cháo…, cúng rồi còn
hay hết, cúng rồi còn nguyên. Như vậy rõ ràng do tâm tưởng, họ ăn được no. Họ
ăn bằng cái tưởng nên họ sống bằng tâm tưởng nhiều hơn sống bằng cái thực. Vì
thể xác của họ không nặng nề như mình, mà nhẹ nhàng như bóng như gió vậy. Do
sống bằng tâm tưởng nên khi chuyển tâm tưởng lại thì liền đó thoát khổ. Khi chư
Tăng nguyện lành cho bà, bà thức tỉnh chuyển tâm hiểm ác keo kiệt trở thành tâm
lương thiện, liền sanh cõi Trời. Như vậy không phải chư Tăng có khả năng đưa bà
lên cõi Trời, mà do bà chuyển được tâm niệm nên sanh về cõi Trời.
Lúc trước bà
chết, tâm hiểm ác keo kiệt dẫn bà đi vào cõi Ngạ quỷ. Thế thì quý Phật tử nhất
là những vị lớn tuổi cần phải đề phòng. Chúng ta khi ra đi sẽ theo tâm tưởng mà
thác sanh. Tưởng lành tưởng ác sẽ dẫn mình đi vào đường lành đường ác. Do đó
nhà chùa hay tổ chức lễ cầu nguyện cho người sắp lâm chung, chư Tăng chư Ni
hoặc huynh đệ Phật tử tới hộ niệm để làm gì? Bởi vì khi chúng ta sắp xả thân,
thể xác này đau đớn khổ sở vô kể, vì lo đau đớn nên quên niệm lành. Bây giờ
muốn được niệm lành phải có sự trợ lực của chư Tăng chư Ni hoặc huynh đệ, cùng
đọc lên những lời dạy của Phật tức là đọc kinh, để mình nhớ lại Phật mà quên
những niệm xấu. Nhờ nhớ Phật, quên niệm xấu nên nhắm mắt mình đi đường lành. Đó
là ý nghĩa quan trọng của người trợ niệm.
Chúng ta khi còn
khỏe mạnh tỉnh táo nghĩ tới điều lành, nghĩ tới lời Phật dạy không khó. Nhưng
lúc đau đớn khổ sở, thân thể bức ngặt quá, thật là khó nhớ. Cho nên bây giờ
chúng ta ráng tu, ráng gìn giữ tâm tư trong sáng. Những tâm tư trong sáng đó
giúp mình khi bức bách không bị quên, không bị xao lãng, nếu không tu như vậy
tới chừng đó chúng ta không thể chuyển kịp. Nhiều người khi sống cũng làm đôi
ba việc thiện, nhưng khi chết đau khổ quá, ai làm trái ý liền nổi giận lên.
Chính cái giận đó sẽ dẫn họ đi vào đường ác, gọi là cận tử nghiệp, cái đó hết
sức hệ trọng. Quý Phật tử nghĩ đến sự tu thì ráng tập tâm tư của mình luôn luôn
trong sáng. Khi gần nhắm mắt được chư Tăng chư Ni hoặc các Phật tử giúp cho,
mình cố gắng thêm quên cái đau đớn, chỉ nhớ Phật, đó là duyên tốt để đi đường
lành. Người thân cũng nên nhớ đừng gây phiền hà buồn bực làm cho thần thức kẻ
sắp lâm chung đi vào đường khổ.
Bởi vậy tinh thần hiếu thảo của Phật tử là phải quý trọng giờ lâm chung của cha
mẹ, đem hết lòng thành kính thỉnh mời chư Tăng chư Ni tới để trợ lực giúp cho
cha mẹ tỉnh táo, nhớ được điều lành. Đây là việc hết sức thiết yếu. Phật tử nhớ
chúng ta tu là làm sao cho hiện đời được an lạc, khi nhắm mắt đi trên đường
lành. Đó là người biết lo xa, chuẩn bị trước, không phải tu chỉ để được phước.
Được phước mà tâm còn tối tăm, xấu xa thì phước chưa đủ để đưa mình tới chỗ
lành.
Như chúng ta
thấy có nhiều con chó sướng hơn con người, phải không? Nó được cưng được quý,
trong khi nhiều con người sống lang thang rất khổ sở. Bây giờ đặt câu hỏi ngược
lại, có phước mới được làm người, vô phước mới làm súc sanh, tại sao đã làm súc
sanh mà sướng hơn người? Đó là một vấn đề chúng ta cần phải hiểu rõ. Bởi vì
người vừa làm phước vừa tạo tội nên sanh có quả không cố định được. Ví như
người đi ăn trộm được tiền nhiều, họ đem cúng chùa một phần, hưởng một phần.
Như vậy một bên làm tội một bên làm phước. Có tội thì phải đọa, nhưng làm phước
thì hưởng phước. Cho nên tuy tội đọa làm súc sanh mà vẫn hưởng được phước sung
sướng. Phật tử tu làm sao để vừa được làm người, vừa có phước nữa, chớ đừng có
phước mà không được làm người, uổng lắm. Hiểu rõ như vậy chúng ta sẽ không thắc
mắc về thân phận và quả phước khác nhau của chúng sanh.
Quý vị tu hành
không phải chỉ làm phước thôi mà ráng chuyển tâm của mình làm sao cho tốt, cho
thanh tịnh sáng suốt. Đó mới là gốc của sự tu. Phước để bổ túc thêm khiến cho
chúng ta có mặt ở đâu đều được an vui, sung sướng, dễ tu. Trong nhà Phật thường
gọi là phước tuệ song tu. Tuệ là trí tuệ để chiếu soi làm cho xấu xa suy giảm,
rồi sau đó tu phước nữa thì mới được hưởng đầy đủ. Đó là nói sơ lược qua về ý
nghĩa của tinh thần kinh Vu Lan trong nhà Phật.
HT.THÍCH THANH
TỪ