Thứ Sáu, 9 tháng 8, 2013

Tôn vinh cái gì? Thói háo danh hay thành tích học thuật?

Hôm nay Tia Sáng có một bài viết của Lại Nguyên Ân rất đáng đọc. Bài viết bàn về câu chuyện văn bia tiến sĩ hiện đại. Câu chuyện chung quanh trung tâm tiến sĩ (ấy là tôi gọi cho gọn) càng ngày càng thu hút nhiều người thảo luận, nhưng tôi nghĩ bài trên Tia Sáng quả là nặng kí.
Đọc đến đoạn
Cách đây ít năm, đã có một nỗ lực cùng loại nhưng tầm cỡ nhỏ hơn: một nhóm nào đó đứng ra tổ chức tiếp cận những người có bằng tiến sĩ các loại, tập hợp tư liệu tiểu sử, ảnh chân dung và liệt kê công trình khoa học rồi in thành 2 tập “Tiến sĩ Việt Nam hiện đại”, nghe nói bán rất chạy; rất chạy là vì mỗi vị có tên trong đó sẽ mua ít nhất 1 cuốn! Còn tác dụng của 2 tập sách mỗi cuốn trên dưới ngàn trang in đó thì không thấy ai nói là có hay không!”
làm tôi nhớ đến một câu chuyện vui cũng lâu rồi. Sáng hôm đó một nghiên cứu sinh trong lab tôi (nguyên là bác sĩ về ung thư) gõ cửa office tôi vui vẻ nói cô được Who is Who in Medicine chọn để đưa tiểu sử và công trình của cô vào sách. Cái Who is Who in Medicine này thậm chí còn gửi hẳn một mẫu giấy chứng chỉ rất đẹp (giấy cứng) in tên cô một cách trang trọng. Cô hỏi tôi có nên báo cho Viện biết là mình vừa nhận được một vinh dự? Tôi cũng có kinh nghiệm vụ này (vì hồi xưa tôi cũng nằm trong tình thế của cô ấy và được thầy giải thích), nên bảo cô ngồi xuống và giải thích câu chuyện đằng sau cái “vinh dự” này. 
Nói một cách ngắn gọn đó chỉ là một mánh khóe làm tiền rất hay của một số công ti bên Mĩ. Họ hiểu được và khai thác triệt để tâm lí của giới trẻ mới vào khoa học (muốn lưu danh hậu thế) để làm tiền.Hàng năm, mấy công ti này truy tìm trong các tập san khoa học để tìm các tác giả mới xuất hiện. Họ thừa biết đây là những nghiên cứu sinh đang làm tiến sĩ hay thạc sĩ, và chưa có kinh nghiệm nên dễ bị gạt. Khi thấy có tên tác giả mới, họ bèn gửi một lá thư cho tác giả, thường có nội dung đại khái như "Chúng tôi hân hạnh báo tin cho bạn biết rằng bạn đã được một hội đồng khoa học bình chọn làm nhân vật xuất sắc trong năm qua đóng góp của bạn cho ngành XYZ. Chúng tôi xin thành thật chúc mừng bạn. Để vinh danh bạn, chúng tôi muốn đưa tiểu sử bạn vào kỉ yếu ABC. blah blah blah...." Nếu đương sự ok, họ làm thủ tục gọn nhẹ. Xong xuôi đâu đó, họ không quên gửi một invoice. Thông thường, người có tên trong sách phải trả họ khoảng 300 hay 500 USD và họ gửi cho một cuốn sách dầy cộm. Nhưng nếu năm sau không trả tiền cho họ thì họ sẽ loại tên ra khỏi sách.
Không phải chỉ Who is Who in Medicine mà còn cả hàng trăm công ti khác cũng làm tiền như thế. Có công ti còn lấy tên rất kêu như “Academy” để kết nạp hội viên. Trong thực tế, có nhiều nhà khoa học trong nước bị làm tiền vì cái trò này. Mấy năm trước khi về Hà Nội tôi còn nghe một câu chuyện vui mà có thật: một nhà khoa học nọ ở Hà Nội (sau này trở thành người tích phản kháng chính quyền) được New York Academy of Science kết nạp làm hội viên, và thế là ông mở tiệc ăn mừng suốt 3 ngày liền, rồi gắn danh hiệu viện sĩ trước tên mình. Chính vì câu chuyện này nên tôi có cảm hứng viết bài những ngộ nhận danh xưng tốn kém trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn.
Nay có nhóm trong nước muốn làm theo kiểu này. Thật ra, người chủ trương kinh doanh như thế chẳng có gì sai, vì chỉ là business thôi mà. Mà, business này cũng chẳng có gì bất chính. Chỉ có nhà khoa học hay các vị tiến sĩ bị làm con cờ và đơn vị cho họ làm tiền mới là đáng nói.
NVT
====
Tôn vinh cái gì? Thói háo danh hay thành tích học thuật?

11:09-08/10/2008
Suốt hàng chục năm nay, dư luận đã không ngớt truy kích bệnh háo danh, thói sính bằng cấp đang là nguyên cớ bề sâu của nhiều tệ nạn xã hội, không chỉ liên quan đến học hành thi cử mà còn đến cả những chuyện mua bán bằng cấp, chạy chức chạy quyền, liên quan đến công tác cán bộ, công tác nhân sự nói chung. Ấy thế nhưng chừng như căn bệnh này không hề thuyên giảm trước mọi sự công kích; một trong những biểu hiện nổi cộm hiện tại là sự xuất hiện cả một “Trung tâm bảo tồn di sản tiến sĩ Việt Nam thời hiện đại”, đang chuẩn bị xây dựng một Văn Miếu hiện đại rộng hàng mấy chục hecta, dựng bia đá ghi danh các tiến sĩ thời nay.
Cách đây ít năm, đã có một nỗ lực cùng loại nhưng tầm cỡ nhỏ hơn: một nhóm nào đó đứng ra tổ chức tiếp cận những người có bằng tiến sĩ các loại, tập hợp tư liệu tiểu sử, ảnh chân dung và liệt kê công trình khoa học rồi in thành 2 tập “Tiến sĩ Việt Nam hiện đại”, nghe nói bán rất chạy; rất chạy là vì mỗi vị có tên trong đó sẽ mua ít nhất 1 cuốn! Còn tác dụng của 2 tập sách mỗi cuốn trên dưới ngàn trang in đó thì không thấy ai nói là có hay không!

Cách dựng “bia giấy” kể trên dẫu sao cũng “không là cái đinh gì” so với dự án vừa được công bố. Một điều rất đáng chú ý: đứng chủ trương công việc của trung tâm nói trên là những tên tuổi đã từng đứng đầu các cơ quan Nhà nước về khoa học và giáo dục. Căn bệnh sính bằng cấp, thói háo danh, qua dữ kiện về nhân sự này, càng cho thấy mức trầm kha của nó trong xã hội ta.

Thiết nghĩ nên nhìn thẳng để thấy ý nghĩa hai mặt (thậm chí nhiều mặt), ngay của những di tích như Văn Miếu Quốc tử Giám với những tấm bia khắc tên các tiến sĩ thời trước; hoặc các di tích Văn miếu, văn chỉ, còn sót lại nơi một số làng xã. Một mặt, toàn bộ các di tích ấy là bằng chứng về truyền thống hiếu học của dân ta, riêng Văn Miếu Quốc tử Giám còn là bằng chứng về sự xuất hiện khá sớm của các thiết chế giáo dục đào tạo trong chính sách của Nhà nước quân chủ trên đất nước ta mà các tấm bia khắc tên những người đỗ đạt cao đó là minh chứng rõ rệt. Nhưng mặt khác, các di tích ấy, những tấm bia khắc tên ấy cũng gắn với một trong những thói tật của người Việt đời xưa: đi học chỉ cốt đỗ đạt để được làm quan, khi đã quan cao bổng hậu, vinh thân phì gia rồi thì không “học” thêm gì nữa, chẳng có công tích gì đáng kể, đến nỗi ngoài mấy ký tự còn lại trên đá thì người mang họ tên ấy hầu như chẳng có công trình tác phẩm gì để lại cho đời.

Cho nên, với Văn Miếu, của ngày xưa hay của ngày nay, vấn đề là duy trì nó, dựng mới nó để tôn vinh cái gì? Để làm thỏa mãn thói háo danh, thói sính bằng cấp vốn cũng rất có “bề dày truyền thống” của người đời nay, hay tôn vinh thành tích học thuật của các nhà khoa học tiêu biểu, những người có thể có hoặc không có tấm bằng tiến sĩ nhưng có công trình thật sự, được thừa nhận thật sự?

Ở khía cạnh tôn vinh thành tích học thuật của những nhà khoa học tiêu biểu, theo tôi, hoạt động của trung tâm vừa thành lập kể trên có thể nên được tiếp tục, nhưng nội dung công việc, − và cả tên gọi của trung tâm nữa, − cần có ít nhiều thay đổi. Vấn đề chính trong nội dung là: nên tôn vinh những nhà khoa học có thành tích học thuật thật sự, có công trình, có đóng góp thật sự vào các ngành khoa học ở trong hoặc ngoài nước. 
Còn đối với những người đã đỗ tiến sĩ, có nên ghi nhận không? Thiết nghĩ nên hay không là tùy thuộc sự suy nghĩ của chúng ta, − tức là suy nghĩ của dân chúng và nhất là của giới trí thức.

Nên nghĩ thế nào về “tiến sĩ”? Tạm bỏ qua mọi thứ lộn sòng, gian dối liên quan đến việc mưu cầu tấm bằng “tiến sĩ”, ở trong hay ở ngoài nước, ta hãy chỉ cần nhớ đó là quy chế được đánh dấu cho bậc (= học vị) cao nhất về học vấn của người đi học. Nghĩa là “tiến sĩ” dù sao cũng là dấu hiệu thuộc tư cách học trò. Đối với cuộc đời, đối với nhân quần, điều đáng quan tâm trước hết không phải là con người kia có bằng cấp gì, mà là con người có học vấn nào đó đã làm được những gì có ích, ví dụ, mở mang gì thêm cho tri thức, tạo ra cái gì mới về kỹ năng làm việc, đóng góp gì mới vào sự tiện nghi của đời sống con người? Nói cách khác, việc người ta đi học để có được những tấm bằng “cử nhân”, “thạc sĩ”, “tiến sĩ”, − chủ yếu vẫn là việc của mình và cho mình; việc người ta phát minh, sáng chế, làm ra công trình, tác phẩm, − mới là việc vì người khác, vì cộng đồng. Người ta chỉ nên tôn vinh những hành động vì cộng đồng, vì nhân loại.
Theo tôi, hoạt động của trung tâm nói trên nên hướng vào phạm trù “nhà khoa học” thay vì phạm trù “tiến sĩ”. Hoạt động chính ở đây là lập bảo tàng danh nhân khoa học người Việt.
Nếu hiểu vấn đề theo cách như vậy thì, theo tôi, hoạt động của trung tâm nói trên nên hướng vào phạm trù “nhà khoa học” thay vì phạm trù “tiến sĩ”. Hoạt động chính ở đây là lập bảo tàng danh nhân khoa học người Việt. Hoạt động này cũng tương tự hoạt động làm bảo tàng văn học mà Hội nhà văn đang chủ trì, khác chăng là những người làm nghề bảo tàng khác nhau sẽ có sáng kiến khác nhau.

Nhân nói đến di sản của các nhà khoa học, tôi lại nghĩ đến một tình trạng hầu như trái ngược nhau khá phổ biến ở ta, ấy là sau khi một học giả tầm cỡ nằm xuống, sau tang lễ trọng thể ít lâu sẽ có việc truy tặng huân chương, giải thưởng, những hội thảo, kỷ niệm rầm rộ, v.v… nhưng chỉ có một việc rất ít khi được tiến hành: ấy là lập những nhóm chuyên gia và nhân viên để kiểm kê tủ sách, giấy tờ, bản thảo của người quá cố, để xem có những tác phẩm nào còn bỏ dở, những thư từ ghi chép ra sao, tóm lại là kiểm định phần thật sự là di cảo, bên cạnh phần công trình tác phẩm đã công bố. Từ vài chục năm trước trong dư luận đã có những lời ta thán về chuyện tủ sách cũ của học giả này hay học giả kia không được bảo quản tốt, đến nỗi để các cháu nhỏ đem xé sách quý chữ nho ra phất diều thả chơi.

Nói rộng ra, nên thấy tình trạng yếu kém cả ở việc nghiên cứu về nhân vật trong sử học lẫn việc nghiên cứu tác gia trong văn học, − yếu kém từ sưu tầm tập hợp tư liệu hiện vật đến khái quát chung về cuộc đời những con người tiêu biểu về những phương diện nào đó; biểu hiện rõ nhất là các tác gia người Việt chúng ta chưa viết ra được cuốn tiểu sử nào đạt chuẩn khiến giới biên khảo nước ngoài buộc phải dịch ra tiếng nước họ thay vì đầu tư cho chuyên gia của họ đi tìm hiểu để viết ra. Nên nhận ra điều này, ngay về những nhân vật lớn người Việt mà thế giới cần biết nhất.

Phải chăng hoạt động của những cơ sở như trung tâm nói trên sẽ hướng tới những chuẩn mực cao về bảo tồn di sản các nhân vật lịch sử, cụ thể là của những học giả Việt Nam tiêu biểu ở thời hiện đại?
Lại Nguyên Ân
Nguồn: tuannguyenvan.blogspot.com

Tại sao người ta thích danh xưng?

Tôi khổ tâm nhất là chuyện danh xưng, hay phải nói đúng hơn là “vấn đề danh xưng”. Tôi thỉnh thoảng viết báo và không bao giờ sử dụng đến danh xưng, thế nhưng những người biên tập vẫn chêm vào những danh xưng trước tên tôi, làm tôi rất khổ với Ba tôi lúc sinh tiền. Ba tôi mỗi lần đọc được một bài báo với tên tôi tác giả và có kèm theo mấy chữ nhí nhố trước tên là ông nói xa nói gần rằng có người hám danh, thiếu tự tin, nên dùng đến những danh hiệu phù phiếm. Tôi biết Ba tôi nói ai, và tôi thấy mình oan lắm. Có nhiều người như tôi, không bao giờ dùng danh xưng trước tên mình, nhưng vì ban biên tập thêm vào để -- nói theo họ -- là tăng trọng lượng của bài báo! Tôi không hiểu tại sao ý kiến của một giáo sư hay tiến sĩ phải có trọng lượng hơn ý kiến của một người bán vé số? Thật là vô lí! Người khôn nói 100 điều cũng có ít nhất một điều dại dột, còn người dại dột nói 100 điều chắc cũng có ít nhất là 1 điều khôn. Ý kiến phải bình đẳng.

Nhưng trong thực tế thì ở Việt Nam, danh xưng đóng vai trò quan trọng, hay rất quan trọng. Có một lần, khi về làm việc ở một tỉnh thuộc vùng miền Tây, sau bài nói chuyện tôi được một vị cao tuổi ân cần trao cho một danh thiếp với dòng chữ tiếng Anh: “Senior Doctor Tran V. …”. Đây là lần đầu tiên tôi thấy một danh xưng như thế trong đời. Tìm hiểu một hồi tôi mới biết ông là một cựu quan chức cao cấp trong ngành y tế của thành phố (đã nghỉ hưu), nhưng vẫn còn giữ chức vụ gì đó trong một hiệp hội chuyên môn. Tôi nghĩ danh xưng “Senior Doctor” (có lẽ nên dịch là “Bác sĩ cao cấp” hay nôm na hơn là “Bác sĩ đàn anh”). Nhưng tại sao lại cần một danh xưng phân biệt “giai cấp” như thế? Tôi đoán có lẽ vị đồng nghiệp này muốn phân biệt mình với “đám” bác sĩ đàn em chăng?

Một lần khác, khi xem qua chương trình hội nghị tôi thấy ban tổ chức viết tên diễn giả bằng tiếng Việt và tiếng Anh. Những người có danh xưng tiếng Việt ví dụ như “TS BS Trần Thị …” được dịch sang tiếng Anh là “Dr. Dr. Tran Thi …”. Tôi không khỏi cười thầm trong bụng vì chưa thấy nơi nào trên thế giới có cách viết lạ lùng như thế. Tôi sợ nhất là trong hội nghị có đồng nghiệp ngoại quốc mà họ đọc được cái danh xưng “Dr Dr” này chắc tôi tìm lỗ mà chui xuống không kịp quá! Tôi đề nghị cách viết “đơn giản” hơn là chỉ “Dr” thôi là đủ, nhưng cũng phải vài phút thảo luận người ta mới chịu đề nghị này!

Tôi vẫn còn giữ một danh thiếp khác với dòng chữ: “Dr Specialist II Nguyễn M”. Một anh bạn người Úc tôi có lần tình cờ thấy danh thiếp trên bàn nên thắc mắc hỏi tôi “Specialist II” là gì vậy. Lúc đó tôi cũng chẳng biết, nên đành nói: “I have no idea”, nhưng tôi nói thêm rằng tôi đoán đó là bác sĩ chuyên khoa gì cấp 2 gì đó. Anh bạn đồng nghiệp cười nói mỉa mai (rất dễ ghét) rằng: ước gì tao cũng được cấp II nhỉ?

Không nghi ngờ gì nữa: người Việt rất sính dang xưng. Những gì Dạ Lan viết đều đúng, nhưng … chưa đủ. Còn nhiều chuyện cười ra nước mắt về những nhầm lẫn về danh xưng (honorific), tước hiệu, và nghề nghiệp ở Việt Nam mà tôi từng chứng kiến trong các hội nghị. Nghe những lời giới thiệu dài lòng thòng như “Giáo sư, tiến sĩ, nhà giáo nhân dân, anh hùng lao động, bác sĩ Nguyễn Văn …” nó khôi hài làm sao!

Tôi vẫn tự hỏi tại sao người ta thích danh xưng trước tên mình? Kinh nghiệm của tôi, khi tiếp xúc với những người hay sử dụng danh xưng cho thấy họ thường dùng danh xưng với những động cơ sau đây:

1. Người dùng danh xưng thường muốn nuôi nấng niềm kiêu hãnh của mình. Danh xưng thường có xu hướng bơm phồng “cái tôi” của một cá nhân, và do đó làm cho cá nhân đó tự đánh giá cao chính mình hơn là thực tế. Bà Jill Biden, vợ phó tổng thống Mĩ Joe Biden, từng phàn nàn rằng bà rất “bệnh” khi nhận email và thư gửi đến gia đình với dòng chữ “Sen. and Mrs Biden” (Thượng nghị sĩ và Bà Biden). Bà muốn được danh xưng là “Sen. and Dr. Biden”, và thế là bà đi học đế lấy bằng tiến sĩ Anh văn. Sau 4 năm nghiên cứu, bà được trao bằng tiến sĩ ở tuổi 55. Câu chuyện bà Biden sính danh là đề tài đàm tiếu của giới báo chí Mĩ hồi đầu năm nay.

2. Người dùng danh xưng như là một hình thức tự quảng cáo. Thật ra, một số người sử dụng danh xưng "Tiến sĩ" hay "Giáo sư" nhắm mục đích tăng giá trị, trọng lượng của ý kiến của họ. Trong thực tế, công chúng cũng có khuynh hướng xem ý kiến của một “Giáo sư tiến sĩ” có giá trị cao hơn ý kiến của một … nông dân. Bởi vì đánh giá cao ý kiến của những vị sư sĩ này, nên ít ai dám chất vấn hay phản bác lại ý kiến của họ. Nhưng không có bất cứ một lí do nào để xem ý kiến của một vị giáo sư hay tiến sĩ có giá trị hơn ý kiến của một nông dân; vấn đề là logic và bằng chứng, vì hai khía cạnh này mới chính là thước đo giá trị của ý kiến.

3. Người dùng danh xưng muốn được người khác kính trọng mình. Đây là biện minh (hay lí lẽ) của những người chức sắc tôn giáo, vì họ cho rằng họ cần những “Thượng tọa”, “Hòa thượng”, “Linh mục”, “Mục sư”, v.v… để tín đồ tỏ lòng kính trọng họ. Thế nhưng tôi lại nghĩ các Phật tử hay tín đồ Công giáo vẫn có thể gọi “thầy” và “cha” mà đâu có tỏ ra thiếu kính trọng gì đâu!

4. Những danh xưng thường gây chú ý một cách không cần thiết. Người sử dụng danh xưng ngầm nói cho người khác rằng họ là người quan trọng và đáng được kính trọng. Mặc dù họ không bao giờ thú nhận ý đồ ngầm này, nhưng nghiên cứu tâm lí cho chúng ta biết động cơ sử dụng danh xưng là để gây chú ý như ca sĩ thích làm trò khác lạ để thu hút khán giả.

5. Người dùng danh xưng có khuynh hướng khao khát quyền lực và trần tục. Một nghiên cứu ở Mexico cho thấy rất nhiều chính trị gia không có văn bằng tiến sĩ nhưng họ vẫn tìm cách mua danh xưng “Dr” bằng cách tranh thủ hay vận động để được một đại học nào đó cấp cho bằng “tiến sĩ danh dự” (honour doctor). Với danh xưng này, họ rất dễ thu hút cảm tình của cử tri và có cơ may đắc cử hơn những người không có danh xưng.

6. Người dùng danh xưng hay có xu hướng quảng bá thái độ “elite”, thái độ kẻ cả, hoặc thái độ toàn trị. Những người này thường tự tô son điểm phấn cho mình bằng cách “tiêm” vào mình những danh xưng thật kêu và thật ấn tượng và bắt đầu nhiễm thói kiêu ngạo xem thiên hạ như dưới tay mình.

Ba tôi lúc sinh tiền mỗi lần nghe ai được giới thiệu như trên tivi với những danh xưng dài lê thê như “Nghệ sĩ nhân dân, tiến sĩ Vũ Đình …” thì ông thở dài nói một mình: lại một ông thiếu tự tin, lòe thiên hạ. Ba tôi tin rằng những người cần đến danh xưng phía trước tên mình là một tín hiệu cho thấy người đó hoặc là bất tài, hoặc là thiếu tự tin, nên phải lấy những danh tước đó ra để tự nâng cao giá trị cho mình. Ngẫm đi nghĩ lại tôi thấy Ba tôi cũng có lí, bởi vì ở Việt Nam những người thích dùng danh xưng là các quan chức trong chính quyền. Là quan chức, làm việc hành chính hay chính trị, họ không phải làm chuyên môn; do đó, có lẽ họ có nhu cầu phải quảng bá mình như là một nhân vật "văn võ song toàn", và để cho … oai.

Nhưng các quan chức Việt Nam có danh xưng “Dr.” coi chừng! Năm ngoái, theo tờ Washington Post, có ít nhất 7 người Mĩ với bằng tiến sĩ từ các trường danh tiếng như Cornell và Caltech bị điều tra về tội “mạo danh” (“title fraud”) vì họ đề danh xưng “Dr.” trên danh thiếp của họ và websites. Ở EU, chỉ có những người có bằng tiến sĩ từ các trường của EU mới có quyền dùng danh xưng “Dr.” Chẳng biết hư thực ra sao, nhưng nghe qua thì có vẻ ... vô lí quá!

Ở Việt Nam, vấn đề danh xưng là vấn đề “merit” (xứng đáng). Trước tình trạng tiến sĩ giấy, tiến sĩ dỏm tràn lan ở Việt Nam như hiện nay, bất cứ ai được giới thiệu là “tiến sĩ”, người dân ngao ngán nghĩ thầm “lại một tiến sĩ giấy”. Trong bối cảnh đa số (70% hay 95%) giáo sư Việt Nam không xứng đáng với chức danh đó trên trường quốc tế, và với hệ thống phong tước danh như hiện nay thì làm sao danh xưng này củng cố lòng tin của người dân. Nhưng ở Việt Nam vẫn có những tiến sĩ, những giáo sư thật (tức là họ có học và có nghiên cứu xứng đáng với danh xưng đó), nhưng khổ nỗi vì đại đa số những tiến sĩ giấy và giáo sư dỏm kia làm cho công chúng chẳng biết ai là giả và ai là thật. Do đó, cách đánh bóng danh xưng như ở Việt Nam gây ra tình trạng vàng thau lẫn lộn.

Cách dùng danh xưng hiện nay lẫn lộn giữa bằng cấp, phẩm hàm danh dự, và chức vụ. Ai cũng biết cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ là những học vị; phó giáo sư và giáo sư là chức danh khoa bảng trong trường đại học; những “nghệ sĩ nhân dân”, “nghệ sĩ ưu tú”, “nhà giáo nhân dân”, “nhà giáo ưu tú” (toàn bắt chước Trung Quốc!) là những tước hiệu danh dự; còn những “giám đốc”, “đại tá”, “bộ trưởng”, v.v… là chức vụ. Ở Việt Nam, tôi thấy trong các hội nghị, những tước hiệu, chức vụ và học vị đều được liệt kê trước tên người diễn giả, chẳng khác gì một bản lí lịch bằng cấp và chức danh! Ở nước ngoài, trong các hội nghị khoa học, người ta chỉ giới thiệu diễn giả bằng một danh xưng duy nhất như “Dr” hay “Professor”, chứ rất rất hiếm ai giới thiệu thêm chức vụ, và chắc chắn chẳng có ai giới thiệu diễn giả dài lê thê như ở Việt Nam (nếu có ai giới thiệu như thế chắc chắn hội trường sẽ cười ầm lên)!

Cách dùng danh xưng như hiện nay chẳng những lẫn lộn thật giả, giữa chức vụ và học vị, mà còn làm trò cười cho đồng nghiệp quốc tế. Trường hợp mà tôi thuật lại ở trên về “Specialist II” (chắc là bác sĩ chuyên khoa II) là một ví dụ điển hình. Bởi vì chỉ có Việt Nam mới có hệ thống bác sĩ chuyên khoa I, chuyên khoa II lạ lùng như thế, nên đồng nghiệp quốc tế chẳng thể nào hiểu được. Thật ra, họ cũng chẳng cần hiểu Specialist I hay Specialist II hay “chuyên khoa II” là cái gì; họ chẳng thèm tốn thì giờ đọc danh thiếp với những chi chít “Dr”, “Professor” làm gì; họ quan tâm đến CV, đến thực tài hơn. Có liệt kê chín mười danh xưng đi nữa mà CV chẳng có gì, thì chỉ làm cho đồng nghiệp ngoại quốc cười khẩy mà thôi. Khi thực tài không tương đồng hay còn quá thấp so với học hàm và học vị, thì những danh xưng đó chỉ là trò hề cho thiên hạ mà thôi. Nên giảm các danh xưng đi, hay tốt nhất là bỏ đi tất cả danh xưng trong các dịp hội họp chẳng liên quan gì đến khoa học và chuyên môn! Đây là lời khuyên chân tình!

NVT

TB: Viết xong entry này, một bạn đọc giới thiệu bài Nghĩ về từ “nhà” rất thú vị trên blog drnikonian. Đọc bài này, tôi mỉm cười hoài. Hóa ra tôi với cái bác drnikonian này lại gặp nhau ở đề tài “nhạy cảm” này.

Có thể đọc thêm những bài sau đây:

Tôi chỉ là Ashkenazy! Hay quốc nạn loạn chức danh, học vị của Đinh Kim Phúc.

Danh xưng của Dạ Lan.