Thứ Hai, 8 tháng 10, 2012

Cách trình bày tốt trong hội nghị



http://www.powerpointbackgroundtemplates.net/images/powerpoint-presentation-tips.jpgThỉnh thoảng nhận được thư của các bạn từng theo học trong những workshop về “kĩ năng mềm” làm tôi … ấm lòng. Mấy lần trước, tôi đã chia sẻ với các bạn về những trường hợp mà học viên ứng dụng thành công những gì tôi hướng dẫn, hôm nay xin trích một thư của một học viên thành công, và cũng nhân cơ hội này trả lời ngắn cho em ấy luôn.

Email viết (trích):
Em là L, đã tham gia 2 workshop của Thầy tại Tp.HCM, những workshop của Thầy rất bổ ích và "đúng" vào thời điểm em đang cần. Sau workshop viết bài báo khoa học, em đã có 1 accepted paper, mới đây, workshop về trình bày báo cáo trong hội nghị, em có đặt câu hỏi cho thầy, lúc đó em đang băn khoăn có nên tham dự hội nghị KH & trình bày bài accepted paper của mình được không, lúc đó em cũng đang xin tài trợ kinh phí đi dự hội nghị từ NAFOSTED, bây giờ đã được chấp nhận (trong workshop em có hỏi Thầy về các tổ chức nào có tài trợ cho sinh viên ra nước ngoài tham dự hội nghị). Chỉ có điều họ sẽ chi trả sau khi em đi về, vé máy bay họ đã book cho em, em thấy cũng hơi rắc rối, chi phí tham dự conference, book hotel ...
Em viết email 1 là muốn cám ơn Thầy, hy vọng sau này có cơ hội học với Thầy vì Thầy chia sẻ rất nhiều kinh nghiệm quý báu, 2 là xin hỏi Thầy kinh nghiệm để em trình bày tốt trong hội nghị, ngày mai là em bay rồi thưa Thầy, vì thời gian cấp bách, Nafosted chấp nhận cách vào đầu tuần này ( thứ 2), cuối tuần em đã bay, ít có thời gian chuẩn bị, nên em chưa thực hành tập nói gì nhiều ạ.
Em thường xuyên đọc trang web của Thầy, em nhớ câu: Làm gì thì làm, nhưng không được làm mất mặt người Việt Nam :)
Chúc Thầy sức khỏe.

Tôi thường đặt ra một mục tiêu cho mỗi workshop tôi làm là phải có outcome. Outcome ở đây có lẽ nên dịch là thành quả. Học viên sau khi xong khoá học phải có thành quả, như công bố được bài báo khoa học (đây là chỉ tiêu tham vọng nhất, nhưng tôi phải đặt ra). Trong quá khứ đã có nhiều em và đồng nghiệp làm được điều này và thế là nâng cao năng suất khoa học cho Việt Nam. Có em làm được chỉ nhờ đọc những bài viết trên web chứ không có điều kiện tham dự trực tiếp trong các workshop. Nói thật lòng, đó là những thành quả tôi lấy làm tự hào và là động cơ để tiếp tục làm những việc như thế này. Có lần tôi nói trong workshop về trình bày là mấy em bây giờ giỏi hơn tôi mấy chục năm trước, vì các em nói tiếng Anh một cách tự tin, biết thực hành đúng bài bản những gì được hướng dẫn. Đó là nhận xét chân tình, chứ không phải “ngoại giao”.   Đây là những người sẽ giúp Việt Nam hội nhập quốc tế về khoa học trong tương lai.
Em L hỏi cách nào để trình bày tốt. Tôi chỉ có thể khuyên nhanh như thế này:
1. Tìm hiểu khán giả trong hội nghị là ai. Nếu là hội nghị quốc tế thì chắc trong khán giả có người là bậc thầy cô của mình, có người cũng như mình (tức nghiên cứu sinh), nói chung là đa dạng, thì em nên tập trung vào nghiên cứu của mình. Cố tránh những slide mang tính lên lớp (vì mình chưa ở vị trí dạy thầy cô mình) hay những kiến thức kinh điển (vì sẽ làm cho người ta cười mình là trẻ con). Nên đi thẳng vào vấn đề, không nên loanh quanh làm mất thì giờ người khác.
2. Xác định “money slide”. Như tôi có nói trong workshop trước, mỗi bài nói chuyện trong hội nghị phải có cái gọi là money slide, tức là slide có dữ liệu quan trọng nhất, dữ liệu định hình cái nghiên cứu của mình. Đó là slide ăn tiền, slide mà khi họ về nhà vẫn còn nhớ đến mình.  Tất cả các slides khác phải được soạn để yểm trợ cho cái money slide.
3. Khi soạn slides, nhớ đến qui ước n x n. Mỗi slide (nếu text) chỉ nên có khoảng 5-6 dòng thôi, và mỗi dòng nên giới hạn 5-6 chữ. Điều chỉnh số chữ bằng cách chọn font size thích hợp. Nhớ chọn font không chân! Nhớ chọn màu cho thích hợp. Nếu phòng rộng thì chọn màu nền là xanh đậm và chữ trắng hay vàng; nếu phòng hẹp thì chọn màu nền là màu sáng (trắng) và chữ đậm. Nếu có thể, cố gắng dùng nhiều biểu đồ và hình ảnh thay vì dùng slides bằng chữ.
3. Thực hành. Nên nhớ mỗi slide chỉ có 1 phút là tối đa. Nếu người ta cho em 15 phút thì em nên có tối đa là 15 slides. Thực hành nói rất quan trọng. Em nên làm như sau:
  • Cách hay nhất là em soạn (viết ra) toàn bộ bài nói chuyện. Trong bài nói chuyện, em soạn luôn câu mởi đầu, và những câu quan trọng cho từng slide.
  • Soạn xong, em nên học thuộc lòng (nếu được), vì tiếng Anh không phải là tiếng mẹ đẻ nên học thuộc lòng cho … chắc ăn.
  • Thực hành nói: em đứng trước kiếng hay gì đó và thực hành nói, xem có đúng giờ không. Khi đã ok, em mời vài đồng nghiệp vào nghe em nói và đề nghị họ theo dõi giờ, theo dõi điệu bộ xem có ok không.
  • Không bao giờ chủ quan! Trước ngày trình bày, em nên thức sớm và thực hành (trước khi đi ăn sáng!) Ăn sáng xong thì thực hành khó lắm. Ngay trước khi trình bày em vào phòng Speaker (trong hội nghị quốc tế có những phòng dành cho speakers), xem lại slides xem có hình ảnh nào "trật đường rầy" hay những câu chữ nào cần thêm/bỏ, và thực hành một lần nữa.
  • Khi đã ok, em bỏ slide ra, và nghĩ đến tình huống bị cúp điện và em vẫn nói như phây! (Học thuộc lòng rồi, nên chuyện trục trặc kĩ thuật chẳng có vấn đề gì cả).
4. Tập nói. Khi nói, nên nhớ câu đầu là lúc nào cũng cám ơn ban tổ chức và khen thành phố mình đến dự một chút :-). Chẳng hạn như: Thank you, Mr chairman, for your kind introduction. Thank you the organizing committee for giving me an opportunity to come to this BEAUTIFUL CITY and present my work concerning [tựa đề bài báo cáo]. Vạn sự khởi đầu nan: câu mở đầu rất quan trọng. Nếu câu mở đầu trôi chảy, xác suất cao là bài nói chuyện sẽ suôn sẻ. Nếu thành phố em đến có một sự cố nào đó (như Bangkok bị bão lụt chẳng hạn) em nên nói một câu chia buồn với người ta.  Nói được như thế em sẽ gây cảm tình ở khán giả ngay!  Nếu em tự tin khả năng tiếng Anh của mình, có thể nói một câu pha trò để khán giả thức dậy. Dĩ nhiên là nếu chia buồn thì tuyệt đối không được pha trò. 
Khi chuyển từ slide này sang slide khác, em nên dùng nhiều kĩ thuật transition như có đề cập trong workshop.  Chẳng hạn như trước khi chuyển sang slide khác, em nói "In the next slide, I will show .." hoặc "Shown in the next slide is ..." và tay thì đã bấm, xong câu là slide hiện lên ngay.  Làm như thế bài nói chuyện của em sẽ trôi chảy, không đứt đoạn một cách buồn cười.  Khi thấy khán giả có người ngủ, em nói một câu vực họ dậy, như I would like to ask you to pay attention to this figure (nói lớn và nhấn mạnh), hoặc this slide is very important, because ..., hoặc This result is quite remarkable ... Nói bằng giọng nhấn mạnh, chậm nhưng chắc!
5. Câu hỏi. Khi nói xong, em nên có một câu mời gọi người ta đặt câu hỏi. Một cách nói đơn giản là: Thank you for your attention. I would be happy to discuss with you about any point that is not clear in my presentation. Không trốn tránh câu hỏi.  Trước khi trả lời, cám ơn người đặt câu hỏi (thank you for your interesting question). Nếu câu nào khó quá thì nói sẽ bàn thêm hay hỏi trong khán giả có ai biết thì trả lời hộ.  Nếu người hỏi muốn "kiếm chuyện" thì nên bình tĩnh và tỏ ra mình cao hơn họ bằng cách nói rằng "MY VIEW is that .... MY VIEW may not be consistent with yours, but it is consistent with evidence".  Nhấn mạnh là MY VIEW bằng cách nói chậm và lên giọng. Nếu còn ngoan cố hỏi nữa, thì em nói là chúng ta đồng ý là bất đồng ý kiến (we agree to disagree on this point, thank you).  
Nên nhớ là slide cuối cùng phải có cám ơn (acknowledgements). Cần nói thêm là ở VN tôi thấy người ta ít khi cám ơn ai, làm như tất cả dữ liệu là chỉ do họ khám phá ra! Em phải tỏ ra “văn minh” là cám ơn đồng nghiệp và bất cứ ai giúp mình làm được cái nghiên cứu. Ai đó cho tiền em đi dự hội nghị, em phải cám ơn người ta trong slide. NAFOSTED cho tiền thì phải cám ơn họ một cách trịnh trọng. Chẳng những trong slide mà còn phải nói rõ ràng. Cám ơn ban tổ chức đã cho em cơ hội trình bày (ví dụ: I also thank the organizing committee for giving me an opportunity to present my data here in this conference).
Đó là vài lời khuyên nhanh cho em và các bạn. Hi vọng và chúc các bạn một buổi trình bày thành công.
Nguon: Nguyenvantuan.net

Màu da và người Việt




http://www.racismnoway.com.au/teaching-resources/images/PuzzleStimulus.jpgHôm qua, nhân đọc câu phát biểu của Bs Philipp Rösler, tôi có cảm hứng kể vài kinh nghiệm cá nhân ở Úc. Có vài bạn tỏ vẻ ngạc nhiên rằng Úc là xứ sở thân thiện mà cũng có kì thị ư. Lại có bạn nói rằng Việt Nam chúng ta cũng là “chúa kì thị”. Nhưng có một bạn (Huỳnh Mai) bày tỏ suy nghĩ một cách có hệ thống và tôi muốn giới thiệu ở đây.
Nhưng tôi cũng muốn nhân cơ hội này để nói thêm vài điều cho … đầy đủ hơn. Tôi nghĩ rằng xã hội nào cũng có kì thị chủng tộc; nếu không có kì thị chủng tộc thì cũng có phân biệt thành phần và giai cấp. Có lẽ khác nhau là ở mức độ kì thị và biểu hiện. Tôi có cái may mắn đã sống và làm việc qua vài xã hội phương Tây (và dĩ nhiên là Việt Nam) nên có cái cảm nhận chung trên. Ở Mĩ, rất ít ai hỏi tôi câu Where are you from (ông đến từ đâu) theo kiểu tìm hiểu sắc dân nào, nhưng ở Úc thì câu đó rất phổ biến. Dĩ nhiên, tôi không có vấn đề gì về câu đó, nhưng sự hiện diện của câu đó tự nó phản ảnh sự trưởng thành của một xã hội. Ở Mĩ, có lẽ mọi người nhập cư được đảm bảo bình đẳng và xem Mĩ là quê hương, nên câu hỏi đó không có ý nghĩa gì; còn ở Úc, nơi mà người ta còn phân biệt họ và tôi thì câu hỏi đó vẫn tồn tại. Nếu tôi làm gì sai và nếu tôi trả lời tôi đến từ Việt Nam, thì chắc chắn nhiều người Úc sẽ nghĩ À, đúng rồi, nó là thằng Việt Nam mà (như một sự mặc định). Cách hỏi đó cũng giống như Việt Nam ta hay phân biệt người đến từ vùng nông thôn hay thành thị, Nam hay Bắc hay Trung. Nếu tôi làm gì tỏ ra lượm thượm và quê mùa, thì chắc chắn người Sài Gòn sẽ nói hèn gì, nó là Hai Lúa mà. Một sự rập khuông! Do đó, tôi đồng ý là người mình cũng kì thị lắm. 
Úc cũng không nằm ngoài cái “qui luật” đó. Thật ra, Úc từng khét tiếng trên thế giới về kì thị chủng tộc, vì họ có chính sách hẳn hoi. Chính sách đó có tên là White Australia Policy (Chính sách Nước Úc Da Trắng). Theo tinh thần của chính sách này, Úc hạn chế di dân người da màu (kể cả Á châu). Chính sách này chỉ mới được (hay bị) bãi bỏ vào năm 1973 mà thôi. Một chính sách hiện diện lâu dài như thế trong lịch sử thì những di sản của nó còn tồn tại mãi đến ngày nay là điều không ngạc nhiên. Bởi thế mới có những Pauline Hanson, Geoffrey Blainey, Alan Jones, v.v. những người khét tiếng là không ưa di dân, đặc biệt là di dân Á châu và đặc biệt hơn là người Việt Nam. Blainey là một nhà sử học bảo thủ lừng danh của Đại học Melbourne từng phát biểu những câu rất xúc phạm đến người Việt. Ngay cả cựu thủ tướng John Howard cũng có thể được liệt vào nhóm không ưa Á châu này (tôi tự hào là chưa bao giờ bầu cho ông này một lá phiếu nào cả). Kì thị người tị nạn Việt Nam đã trở thành một đề tài nghiên cứu xã hội khá phong phú. Các bạn có thể đọc bài tổng quan này để biết vấn đề nghiêm trọng ra sao.
Mấy năm đầu khi tôi mới qua đây và còn làm trong nhà bếp Bệnh viện St Vincent, các bạn đồng môn tôi hay nói mày may mắn quá, chứ ngày xưa chúng tao bị kì thị dữ lắm. Nên nhớ các bạn đồng môn này là người da trắng (Ý, Hi Lạp, Ba Lan, v.v.) Họ kể rằng thời đó (thập niên 1970) họ không được vào uống bia ở các pub bia dành cho người Úc! Ngay từ những năm đầu thập niên 1980, người Việt tị nạn cũng bị kì thị ghê gớm. Tôi có một anh bạn bị đám Úc da trắng đánh rất nặng, và với anh thì “mối thù” đó được ghi tâm khắc dạ. Đó cũng chính là bối cảnh ra đời của các băng đảng gốc Việt Nam. Những băng đảng này tuy đứng ngoài vòng pháp luật, nhưng ở một khía cạnh nào đó, cũng góp phần làm cho những kẻ kì thị phải kiêng nể người Việt. Nếu những tên kì thị muốn hành hung người Việt, chúng phải suy nghĩ 9 lần trước khi hành động, chứ không dám ngông nghênh như trước đây. Ngày nay, con cháu tôi nghe chuyện đó cứ như là chuyện hoang đường, nhưng hoàn toàn có thật. Do đó, bây giờ những người thuộc thế hệ tôi cũng có thể nói với các bạn mới qua: các bạn may mắn hơn chúng tôi ngày xưa nhiều lắm, vì Úc đã khác xưa rồi và văn minh hơn nhiều :-).
Úc ngày nay quả thật đã khác xưa. Có phần tiến bộ hơn. Bây giờ thì Úc là một xã hội đa văn hoá, với hàng trăm sắc dân sống và làm việc. Cũng như Mĩ (và sau Mĩ), bây giờ Úc có chính sách chống kì thị chủng tộc rất nghiêm ngặt và minh bạch. Do đó, những hành động kì thị chủng tộc có thể ra toà như bỡn. Điều đó không có nghĩa là không còn kì thị, nhưng tình trạng kì thị giảm rất đáng kể. Nếu có kì thị thì cũng chỉ là ngầm mà thôi.
Hôm nọ, tôi nói họ kì thị có bài bản là có bằng chứng chứ không phải suy luận. Cách đây khoảng 15 năm, khi trào lưu học sinh Á châu (kể cả Việt Nam) thi đậu các trường tuyển (trung học), và trúng tuyển các ngành danh giá trong đại học như y khoa, luật khoa, và thương mại, người Úc có phản ứng. Thoạt đầu, phụ huynh người Úc phàn nàn rằng học sinh Á châu chỉ lo học, mà không chơi thể thao, nên làm cho trường của họ bị mất tiếng! Thế là họ yêu cầu học sinh không chỉ trúng tuyển dựa vào khả năng học mà còn thể thao, mà thể thao là điểm yếu của "phe ta". Khi thấy nhiều học sinh Á châu vào các ngành danh giá, họ "nóng mặt" và tìm cách hạn chế. Họ đòi hỏi phải thi tiếng Anh, vì muốn làm bác sĩ thì phải biết nói tiếng Anh (ai cãi được lí lẽ này?), mà tiếng Anh cũng là điểm yếu của "phe ta". Có thể xem đó là kì thị? Có người không xem đó là kì thị, mà là "nâng cao trình độ và khả năng", nhưng cách nâng cao đó hạn chế học sinh gốc Á châu. Tuy nhiên, đến thế hệ thứ hai (tức con cháu chúng tôi) thì tiếng Anh không thành vấn đề nữa.  
Người Việt có quyền tự hào vì đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển của Úc. Tôi còn nhớ 30 năm về trước, những vùng như Cabramatta là một vùng bán nông thôn, nhưng nhờ vào người Việt, vùng này đã trở thành một khu đô thị rất vivant và rất … Việt Nam. Trong khoa học và giáo dục, người Việt cũng có đóng góp tuy không to lớn gì, nhưng cũng nổi trội nếu so với số người Việt ở Úc. Các chính khách Úc, không biết vì muốn nịnh (để lấy phiếu) hay nói thật lòng, thường phát biểu rằng sự thành công của cộng đồng người Việt ở đây là một tấm gương cho các sắc dân thiểu số khác. Bởi vậy, người Việt có quyền gọi nước Úc là quê hương.
Thú thật, nói ra thì đụng chạm, nhưng tôi phải thú nhận một điều là tôi cảm thấy thoải mái với xã hội Úc này hơn là Việt Nam. Ở Việt Nam, theo tôi biết thì người ta vẫn còn phân biệt người trong và ngoài đảng, vẫn còn dựa vào lí lịch (kiểu có công với cách mạng hay tương tự), vẫn còn xem gốc gác “con ông này, cháu bà kia”. Còn ở Úc, tuy vẫn còn kì thị ngầm, nhưng không ai dám hỏi tôi theo trường phái chính trị nào (theo đảng Lao Động hay “Tự Do”), không ai dám hỏi tôi là người Việt Nam hay người Úc, và hoàn toàn không có chuyện chủ nghĩa lí lịch (kiểu tôi là con của ai, và Ba Má tôi làm gì), vì những câu hỏi này được xem là irrelevant và quan trọng hơn là vi phạm luật pháp. Ở Úc cũng không (hay rất rất ít) những qui định lắt léo như bên Việt Nam. Qui định lắt léo hiểu theo nghĩa muốn diễn giải thế nào là tuỳ ý người có quyền. Ở Úc, tôi không thấy có sự đố kị giữa đồng nghiệp, vì tiêu chuẩn minh bạch, đâu ra đó, người được bổ nhiệm thường đúng người đúng việc. Nhìn như vậy để thấy rằng xã hội Việt Nam còn phải tiến hoá một thời gian dài mới được công bằng như xã hội Úc.
Nếu có thì giờ tôi sẽ tìm đọc những nghiên cứu xã hội về kì thị chủng tộc. Nhưng tôi có một giả thuyết là cường độ kì thị tỉ lệ nghịch với kiến thức văn hoá. Hình như Einstein từng nói rằng cái ego (cái tôi) của một cá nhân càng lớn khi kiến thức của cá nhân đó càng thấp (tương đường với câu thùng rỗng kêu to của người Việt?). Viết theo công thức là ego = 1/knowledge. Tương tự, có thể viết rằng discrimination = 1/education. Quan sát của tôi là kì thị thường xảy ra trong môi trường khó khăn, và người có văn hoá thấp (hiểu theo nghĩa thiếu cơ hội học hành đến nơi đến chốn, hoặc thiếu thông tin), hoặc sống trong môi trường cô lập không tiếp xúc với người ngoại quốc, v.v. là những người hay bày tỏ thái độ kì thị. Vì sống trong môi trường cô lập, nên họ nhìn người ngoài hay khác văn hoá với thái độ nghi ngờ. Họ cảm thấy bị đe doạ bởi một nền văn hoá khác. Điều này giải thích tại sao người Úc ở vùng nông thôn thường có xu hướng rất ghét người di dân. Nhưng khi họ được đi đây đi đó, tiếp xúc với các nền văn hoá khác, thì họ cởi mở hơn. Nếu giả thuyết này đúng thì biện pháp giảm kì thị chính là giáo dục.
Với những bày tỏ mang tính dẫn nhập trên, bây giờ các bạn có thể đọc bài viết của chị Huỳnh Mai ở đây:http://huynhmai.org/2012/09/15/142.

Nam, nữ, đàn ông, đàn bà, Bắc kì, Nam kì, v.v.




http://www.language-exchanges.org/sites/default/files/LanguagePartners5.pngNhư là một “khai bút” cho trang web sau một thời gian vắng bóng (vì đi công tác xa), tôi xin hân hạnh giới thiệu một bài viết của một thân hữu bàn về nguồn gốc và ý nghĩa của những từ như đàn bà, phụ nữ vốn đã nhắc đến trong một bài viết trước ở đâyBài viết cũng bàn đến địa danh rất quen thuộc nhưng có khi nhạy cảm: Bắc kì, Nam kì, Trung kì. Hôm nọ, khi viết entry về vitamin D ở phụ nữ miền Bắc, một anh bạn Hà Nội lâu ngày “gặp lại” có nhắc nhở rằng chữ “Bắc kì” thường hay được hiểu như là một cách nhạo báng, và người Bắc bị kì thị khắp nơi ở Việt Nam. Thú thật, lúc đó viết những chữ “Phụ nữ Bắc kì” tôi chỉ muốn nói vui thôi vì nhớ đến câu thơ của Nguyễn Tất Nhiên (này cô em Bắc kì nho nhỏ), chứ hoàn toàn không có hàm ý gì tiêu cực cả. (Dù sao tôi cũng có vài nữ nghiên cứu sinh từ miền Bắc mà). Hôm nay thì thân hữu Phùng Hoài Ngọc giải thích làm tôi cũng an lòng. Cám ơn anh Ngọc. NVT

Góp lời bàn với Gs Nguyễn Văn Tuấn và Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc 
Rất cảm ơn GS Nguyễn Văn Tuấn cung cấp thêm cách gọi tiếng Anh của “nam, nữ”, cũng như nhiều bài học tiếng Anh khác tôi đã tiếp nhận từ trang web của GS.
Riêng còn mấy điều băn khoăn dưới đây xin mạn phép trình bày:
1. Về cách gọi “nam, nữ” có nguồn gốc Hán ngữ.
: Con gái.
Gọi đầy đủ “nữ tử” (女子). Chì giới tính, chưa hàm ý gì về mặt xã hội hay quan hệ gia đình. Tuy nhiên trong giao tiếp thường nói về người nữ trẻ tuổi.
Chữ “Nữ” thuộc loại chữ “tượng hình”, loại chữ chỉ miêu tả dáng người cơ bản. Điểm nối bật nhất là bộ ngực tuyệt trần (phân biệt rõ nhất với nam tử), cái eo lưng nhỏ xíu (nhỏ đến độ cường điệu), hai tay giang ngang. Dáng người và dáng đi hướng sang bên trái, thật uyển chuyển, đẹp mắt. Không hiểu sao nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc cho rằng hình chữ “nữ” là “hình ảnh một người đang quỳ với hai bàn tay chắp lại đầy cung kính” ? Tôi e rằng chiết tự như thế là khiên cưỡng.
Theo Ts Nguyễn Hưng Quốc: “phụ” , chỉ đàn bà, được tượng trưng bằng hình ảnh một người nữ với cây chổi bên phải (), nghĩa là kẻ mà số phận bị buộc chặt vào các công việc nội trợ, chỉ quanh quẩn trong nhà, hoặc tệ hơn, trong bếp
Tôi xin bàn thêm
 Phụ: từ đơn, người nữ có gia đình, mẹ chồng, nàng dâu, quan hệ phu phụ (vợ chồng). Thêm “nữ” chỉ chung cả giới (số nhiều). 
“Phụ”: Thuộc loại chữ “hội ý” phối hợp với chữ “tượng hình”. Thêm một cây chổi cho “nữ” chỉ là dấu hiệu nhận biết chữ cho dễ, chứ chưa hẳn khinh rẻ phụ nữ.
Tuy nhiên chữ “phụ”  còn có cách chiết tự khác với Ts Nguyễn Hưng Quốc:
Bên trái là bộ nữ, bên phải là ba bộ chồng lên nhau:
Trên cùng là bộ kệ  (jì) : hình bù xù như đầu con nhím
Giữa là bộ mịch (mì) trùm khăn: trùm lên, yên lặng, kín đáo, tịch mịch
Dưới là bộ cân  (jīn): cái khăn, vải vóc.
Nếu tổng hợp (hội ý) cả 3 bộ với “nữ” thì cũng cho ta hình dung thêm vài nét về người “phụ nữ”. (Nếu bảo chữ Chổi 帚 thêm vào chữ Nữ (để tạo chữ Phụ) thì từ xưa và đến nay người ta vẫn làm chổi bằng cỏ lau, cỏ tranh, rơm khô, tre…, nói chung bằng thực vật, vì sao lại có cái khăn, vải (bộ cân) trong chữ Chổi đó ? Đâu phải cái chổi chùi nền nhà gạch bông ngày nay mà có vải, khăn (cân) giẻ rách trong cấu tạo chữ? Đáng lẽ phải có bộ “thảo” (cỏ) chứ ! Biết rằng cách tạo chữ này phi lý nhưng mấy nghìn năm qua vẫn chấp nhận được).
Chẳng hạn chữ “nam” (con trai) , gồm bộ điền 田: ruộng, ở trên, ý nói người nam phải làm ruộng, bộlực力: có sức khỏe, ở dưới. Trên văn tự chỉ là dấu hiệu phân biệt hình thức, chử này cũng chẳng tỏ ra kính trọng nam giới hơn. 
Ts Nguyễn Hưng Quốc còn cho biết trong Hán tự có tới hơn 200 từ ngữ có nghĩa xấu đều có bộ “nữ”, từ đó cho rằng người TQ trọng nam khinh nữ. Thực ra thái độ khinh trọng nam nữ ấy đã rành rành qua lịch sử Trung Hoa, không ai chối cãi rồi. Song ta có thể thấy cũng có rất nhiều chữ tốt đẹp cũng mang tính nữ: mỹ 媺 có bộ nữ bên trái (nghĩa : tốt đẹp) trong các từ “mỹ mãn, chân- thiện- mỹ, hoàn mỹ”,kiều :娇 (uyển chuyển tha thướt, đáng yêu, nuông chiều).v.v...Tôi không có nhu cầu thống kê, phân loại từ ngữ bởi vì hiểu rõ rằng cấu tạo chữ có ít ý nghĩa tư tưởng gì, vì hiểu rằng đời xưa tạo chữ chỉ cốt sao dễ nhớ, dễ viết. Còn ý nghĩa, tính chất sẽ được hình thành chủ yếu trên câu (cú) và bài văn đàng hoàng được xây dựng trên nhiều từ ngữ phối hợp lại với nhau theo ngữ pháp nhất định.
Trong lịch sử hình thành ngôn ngữ Hán có tới 6 kiểu tạo chữ (lục thư) mà chỉ có ba kiểu miêu tả được ít nhiều nội dung, còn lại ba kiểu khác chỉ biểu âm (như chữ Tây) lại chiếm đa số từ vựng. Nói thế để chứng minh rằng ba kiểu tạo chữ có mang chứa ít nhiều nội dung khái niệm chỉ chiếm số ít và không mang thái độ tiêu biểu của dân tộc Hán. (Theo văn hóa học, chính dân phương Tây mới trọng nam khinh nữ kể từ khi các dân tộc du mục hình thành nên bản sắc văn hóa phương Tây, mặc dù người ta biết rằng dân Tây hiện đại rất trọng nữ, ấy là nhờ thành quả Cách mang tư sản Pháp… Tôi e rằng đang lạc đề, xin tùy ý GS để hay gác lại vấn đề này)
 Đàn: Chỉ giới văn nghệ, giới thể dục thể thao...: 文壇 Văn đàn: làng văn. Tao đàn: làng thơ.
Người Việt ghép hai từ đơn gốc Hán: đàn + ông, đàn + bà tạo ra hai từ ghép mà người Tàu đọc không hiểu. Người Việt còn nói tiếp “đàn chim, đàn cá…”.
Bên cạnh Hán ngữ còn có “nam giới, nữ giới”. Cách gọi này trung tính, bình đẳng nam nữ… thiên về danh từ khoa học, hành chính, không phải cách “xưng hô” trong giao tiếp.
  cũng gốc Hán:
1. Bà (chỉ người phụ nữ lớn tuổi): 老太婆 lão thái bà /老婆婆 lão bà bà/ 老太太 lão thái thái.
2. Mẹ chồng: 婆媳 (bà, tức) Mẹ chồng, nàng dâu;
3 .Bà (trước đây chỉ người đàn bà trong một nghề gì: 媒婆兒 (Môi bà nhi) Bà mối (lo việc hôn nhân), nguyên chữ Môi: nghĩa là môi giới, tiếng Việt phết thêm dấu sắc thành “mối” . Bà mụ (bà đỡ đẻ) … 
翁 Ông: người cha, khi ta gọi cha người khác là “ông”, "tôn ông" 尊翁.媺
“ông” là tiếng gọi tôn trọng, như nàng dâu gọi bố chồng là "ông", con rể gọi bố vợ cũng là "ông" (tôn trọng nhưng ít tình cảm hơn đại từ gọi cha đẻ). Bạn bè tôn trọng nhau cũng gọi là "ông" dù nhiều tuổi hay ít tuổi
(Chưa kể rất nhiều đại từ nhân xưng khác nữa trong Hán ngữ) 
Thử chiết tự chữ “Ông”: 
Trên là chữ “công”:公(gong): công bằng, không tư túi, cùng chung, công khai, tước công (vua tặng cho người có công)
Dưới là bộ vũ 羽 (yǚ): lông vũ, lông chim
Nếu ta căn cứ nét chữ thì không thể hình dung “ông” là “người có tính công và có lông” là sao đây. 
Nói chung, bất kỳ chữ Hán nào cũng không thể hiện đầy đủ nội hàm của nó, chỉ là gợi một vài nét cơ bản cho dễ nhớ, dễ nhận biết. Nếu nét chữ mang được một ít nội dung thì càng tốt, không thì thôi. Riêng chữ “tượng hình” đã nói rõ rằng chỉ mô tả sơ qua cái “hình thức” chứ đâu có biểu đạt nội hàm, nội dung và thái độ của người nói, người viết.
Vả lại, thời nay vẫn chưa biết ai tạo chữ, cũng chỉ là một cá nhân nào đó, không thay mặt cho ý thức của cả cộng đồng. (Cũng như ca dao, dân ca được cho rằng sáng tác tập thể , theo quan điểm Mác- Lê Nin, tôi cho là sai, vì ca dao dân ca cũng do một cá nhân tạo ra, cộng đồng nhiều thế hệ chỉ đóng vai biên tập gọt giũa, truyền bá thôi)
Theo ý GS Tuấn: “Để chỉ những người thuộc phái nữ, tiếng Việt có hai từ: ‘phụ nữ’ và ‘đàn bà’. Trong hai từ ấy, chữ ‘phụ nữ’ có âm hưởng lịch sự và trang trọng hơn hẳn chữ ‘đàn bà’. ‘Phụ nữ’ là từ có tính nghi thức (formal) để chỉ người hoặc những người mình kính trọng.
Xin bàn thêm về hai phong cách dùng từ trên. Tôi nghĩ vấn đề ở chỗ “ai là chủ thể phát ngôn” và tùy vào lĩnh vực phát ngôn. “Phụ nữ” chỉ là cách gọi mang màu sắc trung tính, không trọng không khinh. Khi gọi “quý bà, quý ông, quý…” mới là tôn trọng, lịch sự xã giao. Khi gọi “đàn bà” thì vẫn mang tính bình dân, nếu biểu thị khinh khi thì còn tùy theo hoàn cảnh cụ thể.
“Đàn bà” cũng như “đàn ông” (hai từ Hán vốn là từ đơn do người Việt tạo ghép từ mới (đàn + bà, đàn + ông) mà người Hán không dùng. Hai từ ghép đó ưa được dùng trong văn Nôm (và ngôn ngữ bình dân). Hàng vạn từ lai ghép kiểu “từ đơn gốc Hán + cách ghép Việt” có ý nghĩa lịch sử và nhiều kiểu lai ghép khác nữa, ai cũng biết rằng điều đó thể hiện tinh thần cố gắng tự chủ, tự lập tương đối của cha ông ta xưa trong suốt cả nghìn năm.
“Phụ nữ”, “nữ phái”,”nữ giới” ưa được dùng trong văn bác học, văn sách vở chữ Hán (ở Việt Nam ngày xưa) hoặc dùng trong ngôi thứ ba số nhiều, không dùng xưng hô trực tiếp. “Đàn bà” thường do giới bình dân ít học ưa dùng. Mặt khác, “đàn bà” thường dùng chỉ phụ nữ đã lập gia đình, còn “phụ nữ” chỉ chung cả giới.
Nhìn chung, khi có từ gốc Hán tham gia vào tiếng Việt (khoảng từ thời nhà Đường) thì cách gọi trở nên phức tạp và phong phú hơn, làm giàu cho tiếng Việt. Nếu thuần rặt Việt thì chỉ nói “trai /gái” là xong việc nhưng hai chữ này không đủ thể hiện nhu cầu giao tiếp trong trường hợp khác.
Từ đó phân biệt hai văn phong của giới trí thức và bình dân.
Nếu bàn về quan hệ chữ Hán và chữ Việt thì hẳn là câu cruyện dài “nhiều tập”, không thể chấm dứt trong một hội thảo dù hoành tráng đến đâu. Có lẽ, nên có một tạp chí chuyên ngành đăng bài vô hạn về đề tài trên (ví dụ “Tạp chí ngôn ngữ Hán- Việt, chứ không phải chỉ có một “Tạp chí ngôn ngữ” như hiện nay).
2. Bàn thêm về 3 chữ Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ…
Chữ “Bắc kỳ”, hay “Nam kỳ” bản thân nó không có ý gì ngoài khái niệm địa lý và lịch sử. Nó chỉ có ý nghĩa biểu cảm, biểu thái khi có hoàn cảnh nói. Chẳng hạn khi nghe người Nam nói “ông Bắc kỳ” (sau CM tháng 8) thì người Bắc (có thể) khó chịu vì thái độ phân chia, phân biệt theo quán tính thời Pháp, tức là khó chịu vì sự lạc hậu, bảo thủ của người nói. Còn người Trung, Nam nghe nói “kỳ” mà không thấy khó chịu là vì họ không cảm thấy điều đó có vấn đề gì. Thế thôi.  
Trước 1945 các từ BK, TK, NK thường được dùng. Sau Cách mạng tháng Tám, ba chữ chỉ ba vùng, ba chế độ chính trị khác biệt (liên quan đến sự cai trị của thực dân Pháp) lẽ đương nhiên dần dần được bỏ quên trong giao tiếp xã hội và bị phế bỏ trong giao tiếp chính thức và hành chính. Tương tự, Việt Nam sau 1975 nhiều danh từ chỉ vùng miền cũng thay đổi. Hai từ miền Bắc, miền Nam được dùng nhiều... “Các tỉnh phía Bắc” (thay cho Bắc bộ), Các tỉnh phía Nam thay cho Nam Bộ…, “khu vực Tây Nguyên” thay cho “Cao nguyên trung phần”. Lại có trường hợp đặc biệt, Sài Gòn bị/được đổi tên thành TP.HCM nhưng rất ít người nói đúng tên, người Bắc vẫn thích nói “Sài Gòn” do quen miệng (lại đỡ mỏi miệng), người Nam nói gọn “thành phố” vì không thích nói “Thành phố.HCM”. Hiện nay có hiện tượng đáng chú ý: nhiều cơ quan đợn vị ở TP. HCM mới thành lập tìm cách phục hồi tên “Sài Gòn”, như Trường Cao Đẳng sư phạm TP. HCM khi được nâng cấp thành đại học cách đây vài năm đã mang tên mới, ngắn gọn:”ĐẠI HỌC SÀI GÒN”, một nhà xuất bản mới mang tên “NHÀ XUấT BảN VĂN HÓA SÀI GÒN”, chưa kể nhiều công ty, cơ quan mới thành lập khác mang tên “Sài Gòn” mấy năm qua.
Lại còn các cặp từ ngữ “miền trong/ miền ngoài”, “vào Nam, ra Bắc” cũng có một số cách giải thích. Miền Bắc là “ngoài”, nên sẽ “đi ra/ Bắc”, miền Nam là “trong”, vậy sẽ “vào trong/ Nam”. Có nhà văn hóa học giải thích rằng “Ngoài ánh sáng (đầy đủ văn hóa), trong bóng tối (thiếu văn hóa)” do miền Nam khai phá sau nên thiếu văn hóa. “Văn hóa” ở đây với nội dung giới hạn trong “nền văn hóa phong kiến”. Thực ra, đứng từ góc độ chủ thể phát ngôn ở Thăng Long- Hà Nội thì “đi vào xứ Thanh, xứ Nghệ (Đường vô xứ Nghệ quanh quanh / non xanh nước biếc như tranh họa đồ- ca dao)” đã nói từ lâu trước khi có vùng Nam Bộ, và sau đó cứ tiếp tục như vậy kể cả Nam Bộ. Nếu có học giả nào hiểu rõ hai giới từ “trong Nam ngoài Bắc”, “ra Bắc vào Nam” chính xác hơn thì xin cho độc giả được biết, tôi xin tiếp thu.
Kính thư
Phùng Hoài Ngọc

Phụ nữ và đàn bà – females và women




Hôm kia, viết entry “Phụ nữ Bắc kì thiếu vitamin D!” tôi được một độc giả nhắc nhở rằng tựa đề đó có thể gây hiểu lầm và phản cảm. Thật ra, tôi chỉ muốn nói cho vui (chứ chẳng có ý gì), nhưng cũng xin ghi nhận lời nhắc nhở đó. Có khi mình viết vui nhưng người khác thì không nhìn như thế. Trong tiếng Việt, hình như Bắc kì bị hiểu là hàm ý tiêu cực hay nhạo báng (?), còn Nam kì và Trung kì thì chẳng thấy ai phàn nàn! Hôm nay, đọc bài “Tính chính trị của ngôn ngữ” của Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc, một bài rất hay, nên cũng muốn có thêm vài lời về chữ male  female, và sex với gender trong tiếng Anh.

Hai chữ mà tôi muốn nhắc đến là đàn bà và phụ nữ. Trong bài viết, có đoạn làm tôi giật mình, vì lần đầu mới biết đến:
“Để chỉ những người thuộc phái nữ, tiếng Việt có hai từ: ‘phụ nữ’ và ‘đàn bà’. Trong hai từ ấy, chữ ‘phụ nữ’ có âm hưởng lịch sự và trang trọng hơn hẳn chữ ‘đàn bà’. ‘Phụ nữ’ là từ có tính nghi thức (formal) để chỉ người hoặc những người mình kính trọng; “đàn bà” là từ bình dân, được dùng trong trường hợp hoặc thân mật hoặc khinh thường. Thế nhưng, “phụ nữ”, vốn là từ Hán Việt, trong gốc gác của nó, ở Trung Quốc, lại không sang và không nhã như trong tâm thức người Việt: Về từ nguyên, chữ ‘nữ’ được tượng trưng bằng hình ảnh một người đang quỳ với hai bàn tay chắp lại đầy cung kính (); chữ ‘phụ’, chỉ đàn bà, được tượng trưng bằng hình ảnh một người nữ với cây chổi (), nghĩa là kẻ mà số phận bị buộc chặt vào các công việc nội trợ, chỉ quanh quẩn trong nhà, hoặc tệ hơn, trong bếp.”
Hoá ra, chữ phụ nữ có một nguồn gốc không mấy hay ho như thế! Hồi nào đến giờ tôi vẫn dùng chữ này trong các bài báo khoa học, vì nghĩ đó là một cách nói trang trọng dành cho phái nữ. Trong khoa học mà viết “Vitamin D ở đàn bà Việt Nam” thì thật khó đọc quá.
Bài viết của anh đồng hương tôi, Nguyễn Hưng Quốc, còn trích dẫn một phát hiện rất thú vị của một học giả người Mĩ, nhận xét rằng:
“Giữa nam và nữ, hầu hết các ngôn ngữ đều thiên vị phái nam. Trong tiếng Anh, đàn ông (man) tượng trưng cho loài người nói chung (mankind / human); trong chữ Hán, có khoảng 250 từ có chứa đựng từ tố nữ, trong đó, ngoài những từ thuần miêu tả, còn lại hầu hết đều mang nghĩa tiêu cực, như một cách đồng nhất phụ nữ với cái xấu: chữ “gian” (gian đối) được tạo thành bởi hình ảnh ba người phụ nữ (); trong chữ “nộ” (giận dữ) cũng được tạo thành bởi hình ảnh trái tim của người phụ nữ (); trong chữ “đố” () (ganh ghét) và chữ “yêu” () (yêu sách, đòi hỏi) cũng có bộ nữ bên cạnh hoặc phía dưới, v.v.”
Lại thêm một phát hiện (đối với cá nhân tôi) rất đáng biết. Đọc đoạn này tôi chợt nhớ đến ca khúc nổi tiếng với tựa đề Đàn bà của nhạc sĩ Song Ngọc. Trong bài đó, có những lời ca có thể nói là … cay cú:
Ôi đàn bà là những niềm đau
hay đàn bà là ngọc ngà trăng sao
Ôi đàn bà lại là con dao làm tim nhỏ máu.
Ôi đàn bà dịu ngọt đêm qua
Hay đàn bà lạnh lùng hôm nay
Ôi đàn bà là vần thơ say
Khúc nhạc chua cay.
Không biết khi viết bài này, nhạc sĩ có tham khảo ý nghĩa chữ phụ nữ trong tiếng Hán? :-)
Quay lại chuyện nghiêm chỉnh trong văn phong khoa học. Trong tiếng Anh, những danh từ như male / female, gender / sex cũng có khi gây ra vài tranh cãi. Trong văn phong khoa học (tiếng Anh), male và female được dùng rất nhiều và rất phổ biến. Chúng ta hay bắt gặp những cách viết như “Among female patients” hay “In males, the relationship was ….”. Nhưng gần đây, có người chất vấn cách dùng đó. Có lần trong một cuộc họp ban biên tập một tập san y khoa mà tôi là thành viên, có người đặt vấn đề là có nên dùng từ men / women thay cho males / females.Sau một hồi thảo luận, chúng tôi đồng ý là nên thay thế. Lí do là chữ male / female có thể hiểu là giống đực giống cái, chỉ thích hợp cho thí nghiệm trên động vật như chuột, thỏ, heo, v.v. chứ không thích hợp cho người. Để đề cập đến người, cần phải và nên dùng danh từ men và women. Với tôi, đó là một bài học, và cũng là một kinh nghiệm.
Thế còn chữ gender và sex thì sao? Trong hồ sơ bệnh lí (tiếng Anh), chúng ta hay dùng chữ sex để chỉ giới tính của bệnh nhân, và rất ít hồ sơ bệnh lí dùng chữ gender. Sex như chúng ta hiểu là giới tính. Sau này, ở Việt Nam, người ta có khi viết ngắn hơn: giới. Còn gender thì phần lớn từ điển dịch là giống. Tôi nghĩ cách dịch đó không hẳn là chuẩn nếu hiểu đúng theo nghĩa tiếng Anh. Nhiều chuyên gia xã hội học chỉ ra rằng:
  • Sex là một biến định danh mang tính sinh học. Chúng ta có thể viết sex chromosome, sex hormones, chứ không ai viết gender chromosome, hay hormones of gender cả.
  • Gender cũng là một biến định danh dùng để mô tả đặc điểm mà xã hội và nền văn hoá định danh là đực (masculine) hay cái (feminine).
Theo cách phân biệt này thì sex là cố định, xuất phát từ tự nhiên, còn gender thì mang tính văn hoá và có ý nghĩa xã hội hơn là ý nghĩa sinh lí. Hiểu theo cách này, gender là một social construct, còn sex là một biologic construct. Nếu một người khi sinh ra có sex là nam, nhưng sau này giải phẫu thành nữ thì mô tả như sau: sex là female, nhưng gender là male. Rắc rối!
Tôi nghĩ gender có thể dịch là giới tính, còn sex là giới. Một người là nam (sex = male) nhưng có hành vi giống nữ tínhqua ăn mặc chẳng hạn có thể gọi là nữ tính (gender = female). 
Sẵn đây cũng xin đề cập đến một cách viết mà tôi hay thấy trong các bài báo y khoa bên nhà. Nhiều đồng nghiệp, có lẽ theo thói quen, hay viết như “Trong nữ, nguy cơ mắc bệnh là …”. Đây là cách viết theo Tây, như in women, the risk of disease was … Nhưng tôi nghĩ không nên dùng chữ trong nữ, mà nên dùng chữ ở nhóm nữ. Trong nữ thì có thể bị hiểu lầm, nhưng ở nhóm nữ thì chắc khó bị hiểu lầm.
Vậy xin lưu ý các bạn nào đang viết bài báo khoa học: nếu đối tượng nghiên cứu là người, nên dùng men / womenthay cho males / females. Còn dùng gender hay sex cho "phải đạo" hơn thì tuỳ thuộc vào bối cảnh.
Nguon: nguyenvantuan.net